Khi chưa xác định được dấu hiệu của tội phạm
thì việc tiến hành các hoạt động điều tra, áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với
người bị nghi thực hiện tội phạm có thể dẫn đến oan, sai, vi phạm quyền
dân chủ của công dân. Để loại trừ những trường hợp oan, sai, vi phạm quyền tự
do, dân chủ của nhân dân, điều 143 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định:
Chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu
tội phạm. Như vậy dấu hiệu của tội phạm chính là căn cứ để khởi tố vụ án hình sự.
Khi xác định dấu hiệu tội phạm thì chỉ cần
xác định có sự việc phạm tội xảy ra mà chưa cần xác định ai là người thực hiện
hành vi phạm tội. Sau khi đã khởi tố vụ án hình sự, cơ quan điều tra sẽ tiến
hành các hoạt động điều tra để xác định người thực hiện tội phạm.
1. Những
căn cứ khởi tố vụ án hình sự
Để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, cơ
quan có thẩm quyền phải xác định cho được vấn đề sau đây: Có hành vi vi phạm
pháp luật xảy ra và hành vi đó có dấu hiệu của tội phạm.
Thế nào là hành vi vi phạm pháp luật ?
Hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự xâm phạm độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự,an toàn xã hội, quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật
xã hội chủ nghĩa.
Như vậy nếu chỉ dựa vào những nguồn tin
chưa có sự kiểm tra, xác minh có dấu hiệu tội phạm hay không mà đã quyết định
khởi tố vụ án hình sự thì việc khởi tố vụ án hình sự như vậy không có căn cứ
pháp luật.
Hành
vi nào thì được xem là có dấu hiệu tội phạm ?
Để xem xét một hành vi có được coi là tội
phạm hay không thì căn cứ vào 4 yếu tố: tính trái pháp luật hình sự, tính nguy
hiểm cho xã hội, tính phải chịu hình phạt, tính có lỗi. Trong đó dấu hiệu về
tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu cơ bản, quan trọng, quyết định các dấu hiệu
khác.
Thứ nhất, tính nguy hiểm cho xã hội được
coi là dấu hiệu cơ bản quan trọng nhất, điều này đã được thể hiện qua các quy định
của pháp luật. Khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự 2015 đã khẳng định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội…”.
Như vậy tính nguy hiểm chính là dấu hiệu quan trọng nhất quyết định một tội phạm,
nó được thể hiện thông qua hành vi nguy hiểm cho xã hội. Khoản 2 Điều 8 cũng
quy định: “Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm
cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện
pháp khác”. Như vậy dấu hiệu tội phạm được coi là dấu hiệu tiên quyết, quyết định
các dấu hiệu khác. Một hành vi có đủ 3 dấu hiêu của tội phạm nhưng tính nguy hiểm
cho xã hội của nó là không đáng kế thì không bị coi là tội phạm. Ngoài ra tính
nguy hiểm cho xã hội cũng là căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại
Điều 29 Bộ luật hình sự 2015.
Thứ hai, yếu tố lỗi. Lỗi là thái độ tâm lý
chủ quan của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện và
đối với hậu quả do hành vi đó gây ra, thể hiện dưới dạng cố ý và vô ý.
- Lỗi
cố ý:
Cố ý trực tiếp: Người phạm tội nhận thức rõ
hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và
mong muốn hậu quả xẩy ra.
Cố ý gián tiếp: Người phạm tội nhận thức rõ
hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có
thể xẩy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn
có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
-
Lỗi vô ý:
Lỗi vô ý do quá tự tin: Người phạm tội tuy
thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng
cho rằng hậu quả đó sẽ không xẩy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
Lỗi vô ý do cẩu thả: Người phạm tội không
thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù
phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
Căn cứ vào tính có lỗi cho thấy Luật hình sự
Việt Nam không chấp nhận việc quy tội khách quan chỉ thông qua hành vi gây thiệt
hại cho xã hội mà không căn cứ vào lỗi của người thực hiện hành vi đó. Mục đích
của áp dụng hình phạt là trừng phạt người có lỗi chứ không phải trừng phạt hành
vi.
Thứ ba, tính trái pháp luật hình sự. Tính
trái pháp luật hình sự cũng được thể hiện thông qua Điều 8 BLHS 2015 là: "
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội…được quy định trong Bộ luật hình sự”.
Chỉ chủ thể (bao gồm người và pháp nhân thương mại) nào phạm một tội đã được Bộ
luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
Như vậy tính trái pháp luật cũng là dấu hiệu
đặc biệt quan trọng. Những hành vi được coi là trái pháp luật cũng đồng thời là
hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Luật hình sự. Tính trái pháp
luật là căn cứ để đảm bảo quyền lợi của công dân, tránh việc xử lý tùy tiện.
Ngoài ra tính trái pháp luật hình sự và tính nguy hiểm cho xã hộ là hai dấu hiệu
có mối quan hệ biện chứng với nhau, tính trai pháp luật hình sự là dấu hiệu về
mặt hình thức pháp lí phản ánh tính nguy hiểm cho xã hội.
Thứ năm, thuộc tính phải chịu hình phạt. Phải
chịu hình phạt cũng là dấu hiệu đặc trưng của tội phạm. Chỉ có hành vi phạm tội
mới phải chịu hình phạt, không có tội phạm cũng không có hình phạt. Tính phải
chịu hình phạt là dấu hiệu kèm theo của dấu hiệu tính nguy hiểm cho xã hội và
tính trái pháp luật hình sự. Tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật
hình sự là cơ sở để cụ thể hóa tính phải chịu hình phạt, tính nguy hiểm cho xã
hội càng lớn thì hình phạt càng cao. Cũng vì tính nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm mà bất cứ hành vi phạm tội nào cũng có thể bị đe dọa áp dụng hình phạt.
2. Hành
vi nào thì không bị khởi tố vụ án hình sự
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình
sự (Điều 157 BLTTHS 2015):
- Không
có sự việc phạm tội;
- Hành
vi không cấu thành tội phạm;
- Người
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự;
- Người
mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu
lực pháp luật;
- Đã
hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;
- Tội
phạm đã được đại xá;
- Người
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối
với người khác;
- Đối
với những tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 155 của Bộ luật này mà bị hại hoặc
người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố.
Xem thêm các bài viết khác của chúng tôi tại: chuyentuvanphapluat.com.
Nhận xét
Đăng nhận xét