…… Tiếp theo phần 01
3. Chế độ tài sản vợ chồng theo quy định pháp luật
Theo chế độ tài sản theo luật định, tài sản của
vợ chồng chia làm hai loại: tài sản chung của vợ chồng cà tài sản riêng.
Thứ nhất, tài sản chung của vợ chồng;
Tài sản vợ chồng khi "cơm không lành, canh không ngọt"... |
Theo
Khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 (Luật HNGĐ 2014), tài sản chung
của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản
xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp
pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp vợ chồng thỏa thuận chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân thì phần tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát
sinh từ tài sản của mỗi bên sau khi chia là tài sản riêng của mỗi người (trừ
trường hợp có thỏa thuận khác) được quy định tại Khoản 1 Điều 40 Luật HNGĐ
2014; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản
khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Thu
nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân được hướng dẫn tại Điều 9 Nghị định
126/2014/NĐ-CP bao gồm:
-
Khoản tiền thưởng, tiền trúng thưởng xổ số, tiền trợ cấp, trừ các khoản trợ cấp,
ưu đãi mà vợ, chồng được nhận theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có
công với cách mạng; quyền tài sản khác gắn liền với nhân thân của vợ, chồng;
-
Tài sản mà vợ, chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật Dân sự
đối với vật vô chủ, vật bị chôn giấu, bị chìm đắm, vật bị đánh rơi, bị bỏ quên,
gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước;
-
Thu nhập hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, tài sản riêng.
Theo
Điều 43 Luật HNGĐ 2014, tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có
trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ
hôn nhân; tài sản được chia riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản phục vụ nhu cầu
thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở
hữu riêng của vợ, chồng. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng
cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân là tài sản riêng khi có thỏa thuận chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân.
Theo
Điều 11 Nghị định 126/2014/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình về
tài sản riêng của vợ, chồng còn bao gồm: Quyền tài sản đối với đối tượng sở hữu
trí tuệ theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ; tài sản mà vợ, chồng xác lập
quyền sở hữu riêng theo bản án, quyết định của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền
khác; khoản trợ cấp, ưu đãi mà vợ, chồng được nhận theo quy định của pháp luật
về ưu đãi người có công với cách mạng; quyền tài sản khác gắn liền với nhân
thân của vợ, chồng.
a. Tài sản chung của vợ
chồng
Thứ
nhất, về vấn đề đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản chung;
Theo
Điều 34 Luật HNGĐ 2014, nếu tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật
quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở
hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp
vợ chồng có thỏa thuận khác. Trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy
chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên một bên vợ hoặc chồng thì giao dịch
liên quan đến tài sản này được thực hiện theo quy định tại Điều 26 Luật HNGĐ
2014; nếu có tranh chấp về tài sản đó thì được giải quyết theo quy định tại khoản
3 Điều 33 Luật HNGĐ 2014 theo nguyên tắc: Trong trường hợp không có căn cứ để
chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên
thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
Việc
đăng ký tài sản chung của vợ chồng được hướng dẫn tại Điều 12 Nghị định
126/2014/NĐ-CP như sau:
-
Tài sản chung của vợ chồng phải đăng ký bao gồm quyền sử dụng đất, những tài sản
khác mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sử dụng, quyền sở hữu;
-
Đối với tài sản chung của vợ chồng đã được đăng ký và ghi tên một bên vợ hoặc
chồng thì vợ, chồng có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền cấp đổi giấy chứng
nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đất để ghi tên của cả vợ và chồng;
-
Trong trường hợp tài sản chung được chia trong thời kỳ hôn nhân mà trong giấy
chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi tên cả vợ và chồng
thì bên được chia phần tài sản bằng hiện vật có quyền yêu cầu cơ quan đăng ký
tài sản cấp lại giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
trên cơ sở văn bản thỏa thuận của vợ chồng hoặc quyết định của Tòa án về chia
tài sản chung.
Thứ
hai, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;
Theo
Điều 35 Luật HNGĐ 2014, việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung do vợ
chồng thỏa thuận. Đối với tài sản là bất động sản, động sản phải đăng ký quyền
sở hữu hoặc tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình thì việc
định đoạt tài sản chung phải được thỏa thuận bằng văn bản. Nếu vi phạm quy định
này thì căn cứ Khoản 2 Điều 13 Nghị định 126/2014/NĐ-CP, bên kia có quyền yêu cầu
Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch
vô hiệu.
Căn
cứ Khoản 1 Điều 13 Nghị định 126/2014/NĐ-CP, trong trường hợp vợ hoặc chồng xác
lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung để đáp ứng nhu cầu thiết yếu
của gia đình thì được coi là có sự đồng ý của bên kia, trừ trường hợp phải thỏa
thuận bằng văn bản nêu trên.
Thứ
ba, tài sản chung được đưa vào kinh doanh;
Theo
Điều 36 Luật HNGĐ 2014, trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về việc một bên đưa
tài sản chung vào kinh doanh thì người này có quyền tự mình thực hiện giao dịch
liên quan đến tài sản chung đó và thỏa thuận này phải lập thành văn bản.
Thứ
tư, nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng;
Vợ
chồng có các nghĩa vụ chung quy định tại Điều 37 Luật HNGĐ 2014 như sau:
-
Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi
thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách
nhiệm;
-
Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia
đình;
-
Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;
-
Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối
tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình;
-
Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự
thì cha mẹ phải bồi thường;
-
Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan.
Thứ
năm, chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân;
Căn
cứ Điều 38 Luật HNGĐ 2014, trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận
chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ trường hợp quy định tại Điều 42
Luật HNGĐ 2014:
"Việc chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu khi thuộc một trong các trường hợp sau
đây:
1. Ảnh hưởng nghiêm trọng
đến lợi ích của gia đình; quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con
đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và
không có tài sản để tự nuôi mình;
2. Nhằm trốn tránh thực
hiện các nghĩa vụ sau đây:
a) Nghĩa vụ nuôi dưỡng,
cấp dưỡng;
b) Nghĩa vụ bồi thường
thiệt hại;
c) Nghĩa vụ thanh toán
khi bị Tòa án tuyên bố phá sản;
d) Nghĩa vụ trả nợ cho
cá nhân, tổ chức;
đ) Nghĩa vụ nộp thuế
hoặc nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước;
e) Nghĩa vụ khác về
tài sản theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và quy định khác của pháp luật
có liên quan."
Trong
trường hợp không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết; khi đó
việc chia tài sản thực hiện theo như nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng
khi ly hôn quy định tại Điều 59 Luật HNGĐ 2014.
Thỏa
thuận về việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản. Văn bản này được công
chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật.
Về
thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung, theo Điều 39 Luật HNGĐ 2014,
có các thời điểm sau:
- Là thời điểm do vợ chồng thỏa thuận và được
ghi trong văn bản; nếu trong văn bản không xác định thời điểm có hiệu lực thì
thời điểm có hiệu lực được tính từ ngày lập văn bản.
- Trong trường hợp tài sản được chia mà theo
quy định của pháp luật, giao dịch liên quan đến tài sản đó phải tuân theo hình
thức nhất định thì việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực từ thời điểm
việc thỏa thuận tuân thủ hình thức mà pháp luật quy định.
- Nếu Tòa án chia tài sản chung của vợ chồng
thì việc chia tài sản chung có hiệu lực kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa
án có hiệu lực pháp luật.
Đối
với quyền, nghĩa vụ về tài sản giữa vợ, chồng với người thứ ba phát sinh trước thời
điểm việc chia tài sản chung có hiệu lực thì vẫn có giá trị pháp lý, trừ trường
hợp các bên có thỏa thuận khác.
Việc
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân dẫn đến hậu quả pháp lý quy định tại
Điều 40 Luật HNGĐ 2014 được hướng dẫn tại Điều 14 Nghị định 126/2014/NĐ-CP như
sau:
- Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân không làm chấm dứt chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định.
- Từ thời điểm việc chia tài sản chung của vợ
chồng có hiệu lực, nếu vợ chồng không có thỏa thuận khác thì phần tài sản được
chia; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ
tài sản riêng khác của vợ, chồng là tài sản riêng của vợ, chồng.
- Từ thời điểm việc chia tài sản chung của vợ
chồng có hiệu lực, nếu tài sản có được từ việc khai thác tài sản riêng của vợ,
chồng mà không xác định được đó là thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất,
kinh doanh của vợ, chồng hay là hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng đó
thì thuộc sở hữu chung của vợ chồng.
- Không làm thay đổi quyền, nghĩa vụ về tài sản
được xác lập trước đó giữa vợ, chồng với người thứ ba.
Về
chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, theo Khoản
1 Điều 41 Luật HNGĐ 2014, sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, vợ
chồng có quyền thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung. Hình
thức của thỏa thuận được thực hiện như khi chia tài sản chung. Hậu quả pháp lý
quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều 41 Luật HNGĐ 2014 như sau:
- Kể từ ngày thỏa thuận của vợ chồng chấm dứt
hiệu lực của việc chia tài sản chung có hiệu lực thì việc xác định tài sản
chung, tài sản riêng của vợ chồng được thực hiện theo quy định tại Điều 33 và
Điều 43 Luật HNGĐ 2014. Phần tài sản mà vợ, chồng đã được chia vẫn thuộc sở hữu
riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
- Quyền, nghĩa vụ về tài sản phát sinh trước thời
điểm chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung vẫn có hiệu lực, trừ trường
hợp các bên có thỏa thuận khác.
- Trong trường hợp việc chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo bản án, quyết định có hiệu lực của
Tòa án thì thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung phải được
Tòa án công nhận.
b. Tài sản riêng của vợ
chồng
Thứ nhất, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản
riêng;
Theo
Điều 44 Luật HNGĐ 2014, vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản
riêng của mình; nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung. Trong trường
hợp vợ hoặc chồng không thể tự mình quản lý tài sản riêng và cũng không ủy quyền
cho người khác quản lý thì bên kia có quyền quản lý tài sản đó. Việc quản lý
tài sản phải bảo đảm lợi ích của người có tài sản. Nghĩa vụ riêng về tài sản của
mỗi người được thanh toán từ tài sản riêng của người đó. Trong trường hợp vợ,
chồng có tài sản riêng mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống
duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản này phải có sự đồng ý của chồng,
vợ.
Thứ
hai, nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chồng;
Theo
Điều 45 Luật HNGĐ 2014, vợ, chồng có các nghĩa vụ riêng về tài sản sau đây:
- Nghĩa vụ của mỗi bên vợ, chồng có trước khi kết
hôn;
- Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp nghĩa vụ phát sinh trong việc bảo quản,
duy trì, tu sửa tài sản riêng của vợ, chồng theo quy định tại khoản 4 Điều 44
hoặc quy định tại khoản 4 Điều 37 Luật HNGĐ 2014;
- Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên
xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình;
- Nghĩa vụ phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật
của vợ, chồng.
Thứ
ba, nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung.
Theo
Điều 46 Luật HNGĐ 2014, việc nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung
được thực hiện theo thỏa thuận của vợ chồng. Tài sản được nhập vào tài sản
chung mà theo quy định của pháp luật, giao dịch liên quan đến tài sản đó phải
tuân theo hình thức nhất định thì thỏa thuận phải bảo đảm hình thức đó. Nghĩa vụ
liên quan đến tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung được thực hiện bằng tài sản
chung, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định
khác.
4. Chế độ tài sản vợ
chồng theo thỏa thuận
Theo Điều 47 Luật HNGĐ 2014, trong trường hợp
hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải
được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực.
Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết
hôn.
a. Nội dung cơ bản của
thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ, chồng
Theo Điều 48 Luật HNGĐ 2014, nội dung cơ bản của
thỏa thuận về chế độ tài sản bao gồm:
Thứ nhất, tài sản được xác định là tài sản
chung, tài sản riêng của vợ, chồng;
Việc
xác định tài sản được hướng dẫn tại Điều 15 Nghị định 126/2014/NĐ-CP như sau:
"1. Trường hợp lựa
chọn áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì vợ chồng có thể thỏa
thuận về xác định tài sản theo một trong các nội dung sau đây:
a) Tài sản giữa vợ và
chồng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng;
b) Giữa vợ và chồng
không có tài sản riêng của vợ, chồng mà tất cả tài sản do vợ, chồng có được trước
khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc tài sản chung;
c) Giữa vợ và chồng
không có tài sản chung mà tất cả tài sản do vợ, chồng có được trước khi kết hôn
và trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc sở hữu riêng của người có được tài sản đó;
d) Xác định theo thỏa
thuận khác của vợ chồng."
Thứ hai, quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với
tài sản chung, tài sản riêng và giao dịch có liên quan; tài sản để bảo đảm nhu
cầu thiết yếu của gia đình;
Thứ ba, điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân
chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản;
Thứ tư, nội dung khác có liên quan.
Khi
thực hiện chế độ tài sản theo thỏa thuận mà phát sinh những vấn đề chưa được vợ
chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng thì áp dụng quy định tại các điều
29, 30, 31 và 32 Luật HNGĐ 2014 và quy định tương ứng của chế độ tài sản theo
luật định.
b. Sửa đổi, bổ sung nội
dung của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng
Theo Điều 49 Luật HNGĐ 2014, vợ chồng có quyền
sửa đổi, bổ sung thỏa thuận về chế độ tài sản. Hình thức sửa đổi, bổ sung nội
dung của thỏa thuận về chế độ tài sản theo thỏa thuận được áp dụng theo như quy
định về thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng.
Việc
sửa đổi, bổ sung này được hướng dẫn tại Điều 17 Nghị định 126/2014NĐ-CP như
sau:
"1. Trong trường
hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được áp dụng thì trong thời kỳ
hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận sửa đổi, bổ sung một phần hoặc toàn bộ nội
dung của chế độ tài sản đó hoặc áp dụng chế độ tài sản theo luật định.
2. Thỏa thuận sửa đổi,
bổ sung nội dung của chế độ tài sản của vợ chồng phải được công chứng hoặc chứng
thực theo quy định của pháp luật."
Hậu
quả của việc sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 18 Nghị định 126/2014/NĐ-CP như
sau:
- Thỏa
thuận sửa đổi, bổ sung nội dung của chế độ tài sản của vợ chồng có hiệu lực từ
ngày được công chứng hoặc chứng thực. Vợ, chồng có nghĩa vụ cung cấp cho người
thứ ba biết về những thông tin liên quan theo quy định pháp luật;
- Quyền,
nghĩa vụ về tài sản phát sinh trước thời điểm việc sửa đổi, bổ sung chế độ tài
sản của vợ chồng có hiệu lực vẫn có giá trị pháp lý, trừ trường hợp các bên có
thỏa thuận khác.
c. Thỏa thuận về chế độ
tài sản của vợ chồng bị vô hiệu
Theo Khoản 1 Điều 50 Luật HNGĐ 2014, thỏa thuận
về chế độ tài sản của vợ chồng bị Tòa án tuyên bố vô hiệu khi thuộc một trong
các trường hợp sau:
Một là, không tuân thủ điều kiện có hiệu lực của
giao dịch được quy định tại Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan;
Hai là, vi phạm một trong các quy định tại các
điều 29, 30, 31 và 32 Luật HNGĐ 2014;
Ba là, nội dung của thỏa thuận vi phạm nghiêm
trọng quyền được cấp dưỡng, quyền được thừa kế và quyền, lợi ích hợp pháp khác
của cha, mẹ, con và thành viên khác của gia đình.
Việc
xác định thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng vô hiệu được hướng dẫn tại Điều
6 Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP hướng dẫn thi hành quy định
của Luật hôn nhân và gia đình do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao - Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành. Theo đó, thỏa
thuận về chế độ tài sản của vợ chồng có thể bị Tòa án tuyên bố vô hiệu toàn bộ
hoặc vô hiệu một phần:
- Trường hợp thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ
chồng bị Tòa án tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì chế độ tài sản của vợ chồng theo
luật định được áp dụng.
- Trường hợp thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ
chồng bị tuyên bố vô hiệu một phần thì các nội dung không bị vô hiệu vẫn được
áp dụng; đối với phần nội dung bị vô hiệu thì các quy định tương ứng về chế độ
tài sản của vợ chồng theo luật định được áp dụng.
Tòa
án chỉ quyết định tuyên bố thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu
khi thuộc trường hợp bị vô hiệu quy định tại khoản 1 Điều 50 Luật HNGĐ 2014 và
lưu ý một số trường hợp sau đây:
- Thỏa
thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu do vi phạm quyền được bảo đảm
chỗ ở của vợ, chồng quy định tại Điều 31 và điểm b khoản 1 Điều 50 của Luật hôn
nhân và gia đình là trường hợp thỏa thuận đó cho phép một bên được quyền định
đoạt nhà ở là nơi ở duy nhất của vợ chồng dẫn đến vợ, chồng không có chỗ ở hoặc
không bảo đảm chỗ ở tối thiểu về diện tích, điều kiện sinh hoạt, an toàn, vệ
sinh môi trường theo quy định của pháp luật về nhà ở.
- Nội
dung của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu do vi phạm nghiêm
trọng quyền được cấp dưỡng, quyền được thừa kế và các quyền, lợi ích hợp pháp
khác của cha, mẹ, con và các thành viên khác của gia đình quy định tại điểm c
khoản 1 Điều 50 của Luật hôn nhân và gia đình là trường hợp thỏa thuận đó nhằm
trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng quy định từ Điều 110 đến Điều 115 của Luật hôn
nhân và gia đình hoặc để tước bỏ quyền thừa kế của những người thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự hoặc vi phạm các
quyền, lợi ích hợp pháp của cha, mẹ, con và các thành viên khác của gia đình đã
được Luật hôn nhân và gia đình và pháp luật khác có liên quan quy định.
Ví dụ 1: Ông A đang có nghĩa vụ cấp dưỡng
cho anh B. Sau đó ông A kết hôn với bà C và thỏa thuận chuyển giao toàn bộ tài
sản của mình cho bà C, do đó, không còn tài sản để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
cho anh B. Trong trường hợp này thỏa thuận về tài sản giữa ông A và bà C bị vô
hiệu.
Ví dụ 2: Anh A có con đã thành niên nhưng
không có khả năng lao động. Sau đó, anh A kết hôn với chị B. Anh A và chị B đã
thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng, trong đó có nội dung toàn bộ
tài sản của anh A sẽ do chị B thừa hưởng khi anh A chết. Trong trường hợp này,
nội dung thỏa thuận về chế độ tài sản giữa anh A và chị B bị vô hiệu đối với phần
tài sản của anh A mà người con bị mất năng lực hành vi dân sự được thừa kế theo
quy định của pháp luật.
Về
thủ tục xem xét thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu thực hiện
theo Điều 5 Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP. Cụ thể:
Thứ nhất, cơ quan, tổ chức, cá nhân sau đây,
theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố
thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu do thỏa thuận về chế độ
tài sản của vợ chồng thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 50 của Luật hôn
nhân và gia đình:
- Vợ, chồng
hoặc vợ chồng đã thỏa thuận về chế độ tài sản;
- Người
bị xâm phạm, người giám hộ của người bị xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp do
có thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng.
Thứ hai, trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu
Tòa án tuyên bố thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu được thực
hiện theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Thứ ba, trường hợp Tòa án đang giải quyết
vụ việc dân sự có liên quan đến nội dung thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng
mà có yêu cầu Tòa án xem xét thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng vô hiệu
thì Tòa án phải xem xét, quyết định nội dung thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ
chồng liên quan đến tài sản tranh chấp có bị vô hiệu hay không. Trường hợp thỏa
thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu một phần hoặc toàn bộ thì Tòa
án phải tuyên thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng vô hiệu một phần hoặc
toàn bộ trong bản án, quyết định để làm cơ sở giải quyết quyền, nghĩa vụ của
các bên.
Ví dụ: Anh A và chị B trước khi kết hôn có
lập văn bản thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng, trong văn bản xác định
quyền sử dụng đất là tài sản riêng của anh A trước khi kết hôn (trên thực tế đã
thế chấp cho Ngân hàng C) sẽ là tài sản chung của vợ chồng sau khi kết hôn. Do
đến hạn anh A không trả được nợ nên Ngân hàng C yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm
là quyền sử dụng đất nhưng anh A không đồng ý và cho rằng đây là tài sản chung
của vợ chồng mà không phải tài sản riêng của anh. Ngân hàng C đã khởi kiện ra
Tòa án yêu cầu anh A trả nợ, yêu cầu hủy văn bản thỏa thuận chế độ tài sản của
vợ chồng anh A và yêu cầu xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất của anh
A. Trường hợp này Tòa án phải xác định thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ
chồng anh A bị vô hiệu vì vi phạm nghiêm trọng quyền của ngân hàng C đối với
tài sản đã được anh A thế chấp.
Xem thêm các bài viết khác của chúng tôi tại: chuyentuvanphapluat.com.
Nhận xét
Đăng nhận xét