4.
Các loại hợp đồng dân sự thông dụng
Có nhiều cách thức để phân loại một hợp đồng dân sự tùy theo
các tiêu chí khác nhau. Pháp luật Việt Nam hiện hành đã phân chia các loại hợp
đồng dân sự chủ yếu theo Điều 402 Bộ luật Dân sự 2015 (BLDS 2015) như sau:
"Hợp đồng gồm các loại
chủ yếu sau đây:
1.
Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với nhau.
3.
Hợp đồng chính là hợp đồng mà hiệu lực không phụ thuộc vào hợp đồng phụ.
4.
Hợp đồng phụ là hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc vào hợp đồng chính.
5.
Hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba là hợp đồng mà các bên giao kết hợp đồng đều
phải thực hiện nghĩa vụ và người thứ ba được hưởng lợi ích từ việc thực hiện
nghĩa vụ đó.
6.
Hợp đồng có điều kiện là hợp đồng mà việc thực hiện phụ thuộc vào việc phát
sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một sự kiện nhất định."
Ngoài ra còn có thể có Hợp đồng dân
sự theo mẫu (Điều 405 BLDS 2015): là hợp đồng gồm
những điều khoản do một bên đưa ra theo mẫu để bên kia trả lời trong một thời
gian hợp lý; nếu bên được đề nghị trả lời chấp nhận thì coi như chấp nhận toàn
bộ nội dung hợp đồng theo mẫu mà bên đề nghị đã đưa ra.
BLDS
2015
cũng quy định các loại hợp đồng dân sự thông dụng quy định từ Điều
430 đến Điều 569: hợp đồng mua bán tài sản, hợp đồng trao đổi tài sản,
hợp đồng tặng cho tài sản, hợp đồng vay tài sản, hợp đồng thuê tài sản, hợp
đồng mượn tài sản, hợp đồng về quyền sử dụng đất, hợp đồng hợp tác, hợp đồng
dịch vụ, hợp đồng vận chuyển, hợp đồng gia công, hợp đồng gửi giữ tài sản, hợp
đồng uỷ quyền. Ngoài ra còn có hứa thưởng và thi có giải (Chương XVII BLDS 2015).
5.
Hiệu lực của hợp đồng
Hợp đồng hợp pháp có hiệu lực kể thời điểm
giao kết theo quy định tại Khoản 1 Điều 401 BLDS 2015. Tuy
nhiên thời điểm có hiệu lực của hợp đồng dân sự còn được xác định theo sự thỏa
thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Vì vậy hợp đồng dân sự được coi là có
hiệu lực vào một trong các thời điểm sau đây:
(i)
Hợp đồng bằng lời nói hoặc bằng các hành vi cụ thể có hiệu lực tại thời điểm
các bên đã trực tiếp thỏa thuận với nhau về những nội dung chủ yếu của hợp đồng;
(ii)
Hợp đồng bằng văn bản thường (không cần công chứng, chứng thực hay đăng ký) có
hiệu lực tại thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản hợp đồng;
(iii)
Hợp đồng bằng văn bản có công chứng, chứng thực hoặc đăng ký có hiệu lực tại
thời điểm hợp đồng đó được công chứng, chứng thực hoặc đăng ký.
Ngoài
ra hợp đồng còn có thể có hiệu lực sau thời điểm nói trên nếu các bên đã tự
thỏa thuận với nhau hoặc trong trường hợp pháp luật đã quy định cụ thể. Ví dụ: Điều
458 BLDS 2015 về tặng cho động sản:
"1. Hợp đồng tặng cho động
sản có hiệu lực kể từ thời điểm bên được tặng cho nhận tài sản, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác.
2.
Đối với động sản mà luật có quy định đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho
có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký."
Việc xác định thời điểm có hiệu lực của
hợp đồng có ý nghĩa rất quan trọng. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 401 BLDS 2015,
xác định được thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là xác định được thời điểm
phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên với nhau, và đặc biệt là khi giải quyết
các tranh chấp về tài sản trong hợp đồng mà quy ra thành tiền thì xác định giá
trị của tài sản đó theo thời giá thị trường tại thời điểm hợp đồng có hiệu lực.
Đồng thời hiệu lực của hợp đồng cũng là một trong những căn cứ để xem xét về
tính hợp lệ và thời hiệu khởi kiện trong vụ án dân sự (ví dụ: khi hợp đồng được
giao kết nhưng chưa có hiệu lực thì các tranh chấp nếu có sẽ không được Tòa án
thụ lý giải quyết tại thời điểm đó).
Để một hợp đồng có hiệu lực thì bản thân
hợp đồng đó phải tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của một hợp đồng dân sự, cũng
là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Điều 117 BLDS 2015 quy
định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự như sau:
"1. Giao dịch dân sự có
hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a)
Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao
dịch dân sự được xác lập;
b)
Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
c)
Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật,
không trái đạo đức xã hội.
2.
Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
trong trường hợp luật có quy định."
Bên cạnh đó, căn cứ Khoản
2 và Khoản 3 Điều 407 BLDS 2015, hợp đồng có thể bị vô hiệu khi:
"2.
Sự vô hiệu của hợp đồng chính làm chấm dứt hợp đồng phụ, trừ trường hợp các bên
có thỏa thuận hợp đồng phụ được thay thế hợp đồng chính. Quy định này không áp
dụng đối với biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
3.
Sự vô hiệu của hợp đồng phụ không làm chấm dứt hợp đồng chính, trừ trường hợp
các bên thỏa thuận hợp đồng phụ là một phần không thể tách rời của hợp đồng
chính."
Ngoài ra, hợp đồng còn có thể bị vô
hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được. Cụ thể, Điều 408 BLDS 2015 quy định
như sau:
"1.
Trường hợp ngay từ khi giao kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được
thì hợp đồng này bị vô hiệu.
2.
Trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về việc hợp đồng
có đối tượng không thể thực hiện được nhưng không thông báo cho bên kia biết
nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia, trừ
trường hợp bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể
thực hiện được.
3.
Quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này cũng được áp dụng đối với trường hợp hợp
đồng có một hoặc nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được nhưng phần còn lại
của hợp đồng vẫn có hiệu lực."
6.
Các
giai đoạn của hợp đồng
Một
hợp đồng dân sự thường trải qua 03 giai đoạn sau: Giao kết hợp đồng, Thực hiện
hợp đồng, và Chấm dứt hợp đồng.
6.1.
Giao
kết hợp đồng
Giao kết hợp đồng dân sự là việc các bên bày tỏ ý chí
với nhau theo những nguyên tắc và trình tự nhất định để qua đó xác lập với nhau
các quyền và nghĩa vụ dân sự.
Về trình tự giao kết hợp đồng, trình
tự giao kết hợp đồng là một quá trình trong đó các bên bày tỏ ý chí với nhau bằng
cách trao đổi các ý kiến trong việc cùng nhau đi đến những thỏa thuận làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ. Quá trình này diễn ra qua ba giai đoạn được pháp luật dân
sự quy định như sau:
Giai đoạn 1:
Đề nghị giao kết hợp đồng
Một số vấn đề pháp lý về đề nghị giao
kết hợp đồng như sau:
Thứ
nhất, về khái niệm đề nghị giao kết hợp đồng.
Căn cứ Điều 386 BLDS 2015, đề
nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định
giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với
bên đã được xác định hoặc tới công chúng (gọi là bên được đề nghị). Trong trường
hợp đề nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ thời hạn trả lời, nếu bên đề nghị lại
giao kết hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời
thì phải bồi thường thiệt hại cho bên được đề nghị mà không được giao kết hợp đồng
nếu có thiệt hại phát sinh.
Thứ hai, về thông tin trong giao kết hợpđồng, Điều 387 BLDS 2015 quy định như sau:
"1.
Trường hợp một bên có thông tin ảnh hưởng đến việc chấp nhận giao kết hợp đồng
của bên kia thì phải thông báo cho bên kia biết.
2.
Trường hợp một bên nhận được thông tin bí mật của bên kia trong quá trình giao
kết hợp đồng thì có trách nhiệm bảo mật thông tin và không được sử dụng thông
tin đó cho mục đích riêng của mình hoặc cho mục đích trái pháp luật khác.
3.
Bên vi phạm quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này mà gây thiệt hại thì phải bồi
thường."
Thứ ba, về thời điểm đề nghị giao kết hợp
đồng có hiệu lực;
Căn
cứ Điều
388 BLDS 2015, thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực được xác
định như sau: do
bên đề nghị ấn định hoặc nếu bên đề nghị không ấn định thì đề nghị giao kết hợp
đồng có hiệu lực kể từ khi bên được đề nghị nhận được đề nghị đó, trừ
trường hợp luật liên quan có quy định khác. Các trường hợp sau đây được coi là
đã nhận được đề nghị giao kết hợp đồng:
(i) Đề nghị được chuyển đến nơi cư
trú, nếu bên được đề nghị là cá nhân; được chuyển đến trụ sở, nếu bên được đề
nghị là pháp nhân;
(ii) Đề nghị được đưa vào hệ thống
thông tin chính thức của bên được đề nghị;
(iii) Khi bên được đề nghị biết được
đề nghị giao kết hợp đồng thông qua các phương thức khác.
Thứ tư, về thay đổi, rút lại đề nghị
giao kết hợp đồng;
Theo
Điều
389 BLDS 2015, bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay đổi, rút lại đề
nghị giao kết hợp đồng trong những trường hợp sau:
"1. Bên đề nghị giao kết hợp đồng
có thể thay đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng trong trường hợp sau đây:
a) Bên được đề nghị nhận được thông
báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị trước hoặc cùng với thời điểm nhận được
đề nghị;
b) Điều kiện thay đổi hoặc rút lại
đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề nghị có nêu rõ về việc được thay đổi
hoặc rút lại đề nghị khi điều kiện đó phát sinh.
2. Khi bên đề nghị thay đổi nội
dung của đề nghị thì đó là đề nghị mới."
Thứ năm, về hủy bỏ đề nghị giao kết hợp
đồng;
Theo
Điều
390 BLDS 2015, bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể hủy bỏ đề nghị nếu
đã nêu rõ quyền này trong đề nghị và bên được đề nghị nhận được thông báo về việc
hủy bỏ đề nghị trước khi người này gửi thông báo chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng.
Thứ sáu, chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng;
Theo
Điều
391 BLDS 2015, đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt trong những trường hợp
sau:
"1.
Bên được đề nghị chấp nhận giao kết hợp đồng;
2.
Bên được đề nghị trả lời không chấp nhận;
3.
Hết thời hạn trả lời chấp nhận;
4.
Khi thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị có hiệu lực;
5.
Khi thông báo về việc hủy bỏ đề nghị có hiệu lực;
6.
Theo thỏa thuận của bên đề nghị và bên được đề nghị trong thời hạn chờ bên được
đề nghị trả lời."
Ngoài
ra, nếu bên được đề nghị có nêu yêu cầu hoặc sửa đổi đề nghị sau khi đã chấp nhận
giao kết hợp đồng thì coi như họ đã đưa ra đề nghị mới, căn cứ Điều
392 BLDS 2015.
Giai đoạn 2: Chấp nhận đề nghị
giao kết hợp đồng
Một
số vấn đề pháp lý về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng như sau:
Thứ nhất, về khái nhiệm chấp nhận đề nghị
giao kết hợp đồng. Căn cứ Điều 393 BLDS 2015, chấp nhận đề nghị
giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ
nội dung của đề nghị. Sự im lặng của bên được đề nghị không được coi là chấp nhận
đề nghị giao kết hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc theo thói quen đã
được xác lập giữa các bên.
Thứ hai, về thời hạn trả lời chấp nhận
giao kết hợp đồng. Điều 394 BLDS 2015 quy định như sau:
- Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn
trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi được thực hiện trong thời
hạn đó; nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết thời hạn
trả lời thì chấp nhận này được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời. Khi bên
đề nghị không nêu rõ thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực
nếu được thực hiện trong một thời hạn hợp lý.
- Trường hợp thông báo chấp nhận
giao kết hợp đồng đến chậm vì lý do khách quan mà bên đề nghị biết hoặc phải biết
về lý do khách quan này thì thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có hiệu lực,
trừ trường hợp bên đề nghị trả lời ngay không đồng ý với chấp nhận đó của bên
được đề nghị.
- Khi các bên trực tiếp giao tiếp với
nhau, kể cả trong trường hợp qua điện thoại hoặc qua phương tiện khác thì bên
được đề nghị phải trả lời ngay có chấp nhận hoặc không chấp nhận, trừ trường hợp
các bên có thỏa thuận về thời hạn trả lời.
Thứ ba, trường hợp một trong các bên chết,
mất năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
-
Trường hợp bên đề nghị chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi sau khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận giao kết
hợp đồng thì đề nghị giao kết hợp đồng vẫn có giá trị, trừ trường hợp nội dung
giao kết gắn liền với nhân thân bên đề nghị (Điều 395 BLDS 2015);
-
Trường hợp bên được đề nghị đã chấp nhận giao kết hợp đồng nhưng sau đó chết, mất
năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì
việc trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có giá trị, trừ trường hợp nội
dung giao kết gắn liền với nhân thân bên được đề nghị (Điều 396 BLDS 2015).
Thứ tư, rút lại thông báo chấp nhận giao
kết hợp đồng.
Theo
Điều
397 BLDS 2015, bên được đề nghị giao kết hợp đồng có thể rút lại thông
báo chấp nhận giao kết hợp đồng, nếu thông báo về việc rút lại này đến trước hoặc
cùng với thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng.
Giai đoạn 3: Thực hiện giao kết
Thứ nhất, về địa điểm giao kết hợp đồng;
Căn
cứ Điều
399 BLDS 2015, địa điểm giao kết hợp đồng do các bên thỏa thuận; nếu
không có thỏa thuận thì địa điểm giao kết hợp đồng là nơi cư trú của cá nhân hoặc
trụ sở của pháp nhân đã đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng.
Thứ hai, về thời điểm giao kết hợp đồng;
Căn
cứ Điều
400 BLDS 2015, thời điểm giao kết hợp đồng được quy định như sau:
"1.
Hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận giao kết.
2.
Trường hợp các bên có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng
trong một thời hạn thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm cuối cùng của
thời hạn đó.
3.
Thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời điểm các bên đã thỏa thuận về
nội dung của hợp đồng.
4.
Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản
hay bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản.
Trường
hợp hợp đồng giao kết bằng lời nói và sau đó được xác lập bằng văn bản thì thời
điểm giao kết hợp đồng được xác định theo khoản 3 Điều này."
Thứ ba, về giải thích hợp đồng.
Điều
404 BLDS 2015 quy định các trường hợp cần có sự giải thích hợp đồng bao
gồm:
- Khi hợp đồng có điều khoản không
rõ ràng thì việc giải thích điều khoản đó không chỉ dựa vào ngôn từ của hợp đồng
mà còn phải căn cứ vào ý chí của các bên được thể hiện trong toàn bộ quá trình
trước, tại thời điểm xác lập, thực hiện hợp đồng;
- Khi hợp đồng có điều khoản hoặc
ngôn từ có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau thì phải giải thích theo nghĩa
phù hợp nhất với mục đích, tính chất của hợp đồng;
- Khi hợp đồng có điều khoản hoặc
ngôn từ khó hiểu thì phải được giải thích theo tập quán tại địa điểm giao kết hợp
đồng;
- Các điều khoản trong hợp đồng phải
được giải thích trong mối liên hệ với nhau, sao cho ý nghĩa của các điều khoản
đó phù hợp với toàn bộ nội dung hợp đồng;
- Trường hợp có sự mâu thuẫn giữa ý
chí chung của các bên với ngôn từ sử dụng trong hợp đồng thì ý chí chung của
các bên được dùng để giải thích hợp đồng;
- Trường hợp bên soạn thảo đưa vào hợp đồng
nội dung bất lợi cho bên kia thì khi giải thích hợp đồng phải theo hướng có lợi
cho bên kia.
(còn nữa...)
Xem thêm các bài viết khác của chúng tôi tại: chuyentuvanphapluat.com.
Nhận xét
Đăng nhận xét