Án lệ là những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về một vụ việc cụ thể được Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Toà án nhân dân tối cao công bố là án lệ để các Toà án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử. Đây là một trong những căn cứ để tòa án giải quyết các vụ án, các yêu cầu khởi kiện
1. Án lệ có những giá trị sau:
Thứ nhất,
án lệ mang tính thực tiễn cao. Nghĩa là dựa vào thực tiễn, tập trung vào việc
giải quyết những vấn đề cụ thể của đời sống thực tế chứ không phải giải quyết vấn
đề bằng các lý thuyết chung chung trừu tượng. Tính thực tiễn của án lệ biểu hiện
như sau: Các lý lẽ tạo ra án lệ mang tính nhân tạo chứ không phải mang tính tự
nhiên ; Các luật gia thông luật cố gắng giải thích tinh thần của pháp luật hơn
là hình thức từ ngữ của pháp luật.
Thứ hai,
án lệ có khả năng khắc phục những lỗ hổng pháp luật một cách nhanh chóng và kịp
thời. Đời sống xã hội luôn vận động, phát triển còn các quy phạm trong các văn
bản pháp luật mang tính ổn định, dân đến hệ quả là luật pháp có thể lạc hậu hay
có thể thiếu hụt để giải quyết các vấn đề của cuộc sống. Để khắc phục tình trạng
này, các luật gia dân luật tìm đến những nguồn bổ trợ khác như áp dụng tập quán
hoặc sử dụng án lệ. Các án lệ ở các nước dân luật được hình thành chủ yếu thông
qua con đường giải thích pháp luật của tòa án tối cao. Khi giải thích pháp luật
trong những trường hợp chưa có quy phạm thành văn điều chỉnh, các thẩm phán dựa
vào các nguyên tắc nhất định. Ví dụ như, các thẩm phán Pháp dựa vào công lý và
lý trí, các thẩm phán Đức thì sử dụng cách thức vô hiệu các quy định cụ thể bằng
nguyên tắc chung, các thẩm phán ở các nước Bắc Âu sử dụng quy tắc: "Luật
có hại không phải là luật5. Mặc dù, ở mỗi quốc gia có các cách thức khác nhau để
khắc phục lỗ hổng pháp luật nhưng suy cho cùng cũng phản ánh vai trò làm luật của
tòa án. Trong những truờng hợp này, các bên tranh chấp hay thẩm phán không thể
chờ nghị viện bổ sung hay sửa đổi pháp luật. Tương tự vậy, ở các nước thông luật
các quy tắc án lệ không thể đầy đủ hoặc hợp lý để giải quyết tất cả các tranh
chấp trong xã hội. Các thẩm phán cũng phải tìm kiếm các lý lẽ hợp lý để sửa đổi,
bổ sung các quy tắc án lệ hiện có. Tuy nhiên, khi các thẩm phán thực hiện công
việc này sẽ nhanh chóng và kịp thời hơn so với nghị viện vì phải trải qua một
quy trình và thủ tục lập pháp rất phức tạp.
Trong
lĩnh vực pháp luật dân sự của Việt Nam, để khắc phục sự thiếu hụt của văn bản
pháp luật thành văn, nhà làm luật cũng đưa ra những cách thức nhất định như áp
dụng tập quán hoặc áp dụng tương tự quy định pháp luật6. Cả hai cách thức này đều
có thể dân đến hình thành án lệ. Tuy nhiên, để có thể giải quyết vụ việc bằng
những cách thức này đòi hỏi thẩm phán phải là người có nhiều kinh nghiệm và có
kiến thức sâu rộng trong lĩnh vực khoa học pháp lý.
Thứ ba,
án lệ thể hiện tính khách quan và công bằng. Một số người cho rằng, án lệ được
tạo ra bởi một vài thẩm phán trong hội đồng xét xử khi xử lý một vụ việc cụ thể
nên có thể dân đến tình trạng chủ quan, tùy tiện trong việc tạo ra các quy tắc
án lệ. Thật ra, nhận định này mới chỉ nhìn bề ngoài về nguồn luật án lệ và hiểu
không đúng về bản chất, tinh thần của học thuyết án lệ (doctrine of stare
decisis). Trước hết, một quy tắc án lệ không phải hình thành từ một bản án cụ
thể, mà nó phải được hình thành qua hàng loạt các vụ việc tương tự về sau, bản
án đầu tiên chỉ là hình mâu phác thảo lên một quy tắc án lệ. Vì vậy, một quy tắc
án lệ trong pháp luật thông luật không có tác giả, không có bản quyền cho bất kỳ
thẩm phán nào. Hai là, quy tắc án lệ trong pháp luật thông luật là kết quả của
quá trình đưa ra những lý lẽ và tranh luận lâu dài. Sự tranh luận được thể hiện
thông qua sự tranh luận giữa bên nguyên và bên bị trong vụ việc, giữa các thẩm
phán trong hội đồng xét xử, giữa các thẩm phán sau với các thẩm phán trước đó
khi họ vận dụng lý lẽ của các phán quyết trước đó. Ba là, quy tắc án lệ phải được
thừa nhận là giá trị chung (common value) hay là lý lẽ chung (common reason).
Khi có các trường hợp mới phát sinh nhưng chưa có giải pháp cho các trường hợp
này hoặc nếu lấy các quy tắc đang tồn tại áp dụng các trường hợp này sẽ không
đem lại một kết quả công bằng như mong đợi.
Vì
vậy, các thẩm phán phải đi tìm giải pháp pháp lý mới, nhưng liệu rằng các thẩm
phán có thể tự định ra những tiêu chuẩn, những giá trị riêng mà các bên tranh
chấp phải phục tùng và cả xã hội phải thừa nhận? Nếu vậy thì thẩm quyền làm luật
của tòa án sẽ không có một giới hạn nào cả. Thực chất, thẩm quyền làm luật của
tòa án bị ràng buộc bởi các quy phạm pháp luật thành văn và các quy tắc án lệ
được tạo ra trước đó. Mặt khác, phán quyết của tòa án phải phù hợp với các giá
trị hiện hành của xã hội. Quyết định của tòa án trong những trường hợp này
không chỉ bản thân các thẩm phán cảm thấy rằng nó là hợp lẽ công bằng mà các
bên tranh chấp trong vụ việc và cả xã hội cũng phải thừa nhận tính hợp lý của
nó.
2. Những hạn chế cơ bản của nguồn luật
án lệ:
Mặc
dù, nguồn luật án lệ có những ưu điểm đáng kể như đã phân tích ở trên, nhưng học
thuyết án lệ bị phê phán bởi các luật gia dân luật. Những phê phán tập trung
vào một số điểm sau:
Thứ nhất,
dựa vào tư tưởng phân chia quyền lực trong tổ chức bộ máy nhà nước1. Theo đó,
quyền lực nhà nước được chia thành ba nhánh và giao cho ba cơ quan khác nhau nắm
giữ, cụ thể: lập pháp giao cho nghị viện, hành pháp giao cho chính phủ và tư
pháp giao cho tòa án. Như vậy, nếu trao thẩm quyền làm luật cho tòa án sẽ vi phạm
nguyên tắc này, tòa án sẽ lấn sân chức năng làm luật của nghị viện. Một trong
những nghịch lý khá thú vị là nghị viện (cơ quan lập pháp) có nguồn gốc từ nước
Anh, nhưng cũng chính ở quốc gia này người ta lại trung thành với án lệ và đề
cao vai trò làm luật của tòa án. Dĩ nhiên, các luật gia thông luật không phủ nhận
chức năng ban hành luật của nghị viện, nhưng việc làm luật của nghị viện có những
hạn chế như trên đã phân tích. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng họ chỉ khẳng định sự cần
thiết về vai trò làm luật của tòa án mà không phủ nhận chức năng lập pháp của
nghị viện. Mặt khác, họ cũng lập luận rằng chính tòa án cũng tham gia vào việc
tạo ra hiến pháp không thành văn của nước Anh.
Thứ hai,
nếu sử dụng nguồn luật án lệ sẽ dẫn đến tình trạng hồi tố. Một trong yêu cầu
quan trọng của pháp quyền (rule of law) là không được hồi tố khi áp dụng pháp
luật.
Thứ ba,
án lệ không mang tính thống nhất và hệ thống cao như nguồn văn bản. Điều này
đúng, vì các quy tắc án lệ là các quy tắc ngầm định (implicit rule) tồn tại
trong các bản án dân đến việc nhận thức và xác định mức độ khái quát, phạm vi
áp dụng của một quy tắc rất khó khăn, phức tạp và thường gây ra nhiều tranh
cãi. Bởi vì khi giải quyết một vụ việc nhất định, các thẩm phán không nhằm mục
đích tạo ra một quy tắc cho các vụ việc về sau.
Những nội dung trên tác giả có tham khảo bài viết của Thạc sỹ Đỗ Thanh Trung - Giảng viên khoa Luật Hành chính, trường Đại học Luật TP.HCM.
Những nội dung trên tác giả có tham khảo bài viết của Thạc sỹ Đỗ Thanh Trung - Giảng viên khoa Luật Hành chính, trường Đại học Luật TP.HCM.
Xem thêm các bài viết khác của chúng tôi tại: chuyentuvanphapluat.com.
Nhận xét
Đăng nhận xét