Theo quy định của Bộ Luật Dân sự 2015 (BLDS
2015), có 03 hình thức sở hữu được quy định tại Mục 2 Chương XIII về Quyền sở hữu,
bao gồm: Sở hữu toàn dân, sở hữu riêng và sở hữu chung.
1.
Sở
hữu toàn dân
1.1. Khái niệm
Căn
cứ Điều
197 BLDS 2015, những tài sản thuộc sở hữu toàn dân gồm: đất đai, tài
nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi vùng biển, vùng trời, tài nguyên
thiên nhiên khác do Nhà nước đầu tư, quản lý. Nhà nước là đại diện chủ sở hữu
và thống nhất quản lý. Điều này thể hiện rõ trong quy định tại Điều
198 BLDS 2015 như sau:
"1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đại diện,
thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân.
2. Chính phủ thống nhất quản lý và bảo đảm sử dụng đúng mục đích,
hiệu quả và tiết kiệm tài sản thuộc sở hữu toàn dân."
Việc
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu
toàn dân được thực hiện trong phạm vi và theo trình tự do pháp luật quy định (Điều
199 BLDS 2015).
1.2. Thực hiện quyền sở hữu toàn dân
Các hình thức thực hiện quyền sở hữu
toàn dân theo quy định BLDS bao gồm:
a) Thực
hiện quyền sở hữu toàn dân đối với tài sản được đầu tư vào doanh nghiệp
Đối
với tài sản thuộc sở hữu toàn dân được đầu tư vào doanh nghiệp thì căn cứ Khoản
1 Điều 200 BLDS 2015, Nhà nước thực hiện quyền của chủ sở hữu theo quy
định của pháp luật về doanh nghiệp, quản lý, sử dụng vốn
nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp và quy định khác của
pháp luật có liên quan. Bên cạnh đó, theo Khoản 2 Điều 200 BLDS 2015, doanh
nghiệp cũng phải thực hiện việc quản lý, sử dụng vốn, đất đai, tài nguyên và
các tài sản khác do Nhà nước đầu tư theo quy định của pháp luật có liên quan.
b) Thực
hiện quyền sở hữu toàn dân đối với tài sản được giao cho cơ uqan nhà nước, đơn
vị vũ trang nhân dân
Đối
với tài sản thuộc sở hữu toàn dân được giao cho cơ quan nhà nước, đơn vị vũ
trang nhân dân thì căn cứ Khoản 1 Điều 201 BLDS 2015, Nhà nước
thực hiện quyền kiểm tra, giám sát việc quản lý, sử dụng tài sản đó. Bên cạnh
đó, theo Khoản 2 Điều 201 BLDS 2015, cơ quan
nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân cũng phải thực hiện việc quản lý, sử dụng
đúng mục đích, theo quy định của pháp luật đối với tài sản được Nhà nước giao.
c) Thực
hiện quyền sở hữu toàn dân đối với tài sản được giao cho tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội -
nghề nghiệp
Đối
với tài sản thuộc sở hữu toàn dân được giao cho tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp
thì căn cứ Khoản 1 Điều 202 BLDS 2015, Nhà nước thực hiện quyền kiểm tra,
giám sát việc quản lý, sử dụng tài sản đó. Bên cạnh đó, theo Khoản
2 Điều 202 BLDS 2015, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội,
tổ chức xã hội - nghề nghiệp cũng phải thực hiện việc quản lý, sử dụng tài sản
được Nhà nước giao đúng mục đích, phạm vi, theo cách thức, trình tự do pháp luật
quy định, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được quy định trong điều lệ.
d) Sử
dụng, khai thác tài sản thuộc sở hữu toàn dân của cá nhân, pháp nhân
Theo
quy định tại Điều 203 BLDS 2015, cá nhân, pháp nhân có quyền sử dụng đất,
khai thác nguồn lợi thủy sản, tài nguyên thiên nhiên và các tài sản thuộc sở hữu
toàn dân theo đúng mục đích, có hiệu quả và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với
Nhà nước theo quy định của pháp luật. Ví dụ, nếu cá nhân, pháp nhân được Nhà nước
giao đất nông nghiệp thì phải thực hiện đúng mục đích sử dụng đất nông nghiệp,
đồng thời thực hiện các nghĩa vụ đối với việc sử dụng đất đó như nghĩa vụ nộp
tiền sử dụng đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp...
e) Tài
sản thuộc sở hữu toàn dân chưa được giao cho cá nhân, pháp nhân quản lý
Đối
với tài sản thuộc sở hữu toàn dân chưa được giao cho cá nhân, pháp nhân quản lý
thì theo quy định tại Điều 204 BLDS 2015, Chính phủ phải tổ
chức thực hiện việc bảo vệ, điều tra, khảo sát và lập
quy hoạch đưa vào khai thác.
2.
Sở
hữu riêng
Mỗi cá nhân, pháp nhân
đều có thể có tài sản riêng của mình. Từ đó, thiết lập nên sở hữu riêng đối với
tài sản đó. Theo Điều 205 BLDS 2015, tài sản thuộc sở hữu riêng phải là tài sản
hợp pháp (như tài sản có được do phạm tội thì không được xem là tài sản hợp
pháp) và không bị hạn chế về số lượng cũng như giá trị.
Về
việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng thì theo Điều
206 BLDS 2015, chủ sở hữu có toàn quyền quyết định đối với tài sản nhằm
phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng, sản xuất, kinh
doanh và các mục đích khác không trái pháp luật. Đồng thời, việc thực hiện quyền
sở hữu của mình phải không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc
gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Pháp
luật cũng quy định một số trường hợp hạn chế quyền định đoạt của chủ sở hữu, ví
dụ, theo quy định tại Khoản 4 Điều 44 Luật Hôn nhân và Gia đình
2014, việc định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng là nguồn sống duy nhất
của vợ chồng phải có sự đồng ý của cả vợ và chồng.
3.
Sở
hữu chung
3.1. Khái niệm
Sở
hữu chung trong phần này khác với sở hữu toàn dân. Nếu sở hữu toàn dân, chủ sở
hữu là toàn dân, do Nhà nước đại diện quản lý thì sở hữu chung là sở hữu của một
nhóm chủ thể. Sở hữu toàn dân là một dạng sở hữu chung. Căn cứ Điều
207 BLDS 2015, sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ thể (trừ toàn dân)
đối với tài sản, bao gồm sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất
Đối
với sở hữu chung theo phần, theo Điều 209 BLDS 2015, là sở hữu chung
mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định đối với tài sản
chung. Vì quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định nên quyền và nghĩa vụ đối
với tài sản thuộc sở hữu chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác. Ví dụ: A góp 500 triệu đồng và B góp một căn nhà
được định giá 700 triệu đồng để cùng thành lập công ty TNHH. Do đó, khi phân
chia lợi nhuận cũng như nghĩa vụ đối với các khoản nợ cũng được phân chia tương
ứng theo số vốn mà A và B đã góp.
Đối
với sở hữu chung hợp nhất, theo Điều 210 BLDS 2015, là sở hữu chung
mà phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu không được xác định đối với tài sản
chung, do đó, quyền và nghĩa vụ của các chủ sở hữu cũng ngang nhau đối với tài
sản thuộc sở hữu chung đó. Ví dụ: tài sản chung của vợ chồng. Sở hữu chung hợp
nhất bao gồm: sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia và sở hữu chung hợp nhất
không phân chia.
3.2. Các hình thức sở hữu chung
Theo
quy định BLDS 2015, các hình thức sở hữu chung bao gồm:
a) Sở hữu chung của cộng đồng
Theo
Điều
211 BLDS 2015, "Sở hữu chung của cộng đồng là sở hữu của dòng họ, thôn, ấp,
bản, làng, buôn, phum, sóc, cộng đồng tôn giáo và cộng đồng dân cư khác đối với
tài sản được hình thành theo tập quán, tài sản do các thành viên của cộng đồng
cùng nhau đóng góp, quyên góp, được tặng cho chung hoặc từ các nguồn khác phù hợp
với quy định của pháp luật nhằm mục đích thỏa mãn lợi ích chung hợp pháp của cộng
đồng."; tài sản chung của cộng đồng
là tài sản chung hợp nhất không phân chia và các thành viên của coojgn đồng
cùng quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản chung theo thỏa thuận hoặc theo tập
quán vì lợi ích chung của cộng đồng nhưng không được vi phạm điều cấm của luật,
không trái đạo đức xã hội.
b) Sở hữu chung của các
thành viên gia đình
Theo Khoản 1 Điều 212 BLDS 2015, tài sản
của các thành viên gia đình cùng sống chung gồm tài sản do các thành viên đóng
góp, cùng nhau tạo lập nên và những tài sản khác được xác lập quyền sở hữu theo
quy định của Bộ luật dân sự và luật khác có liên quan.
Căn cứ Khoản 2 Điều 212 BLDS 2015, việc chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của các thành viên gia đình được thực hiện
theo phương thức thỏa thuận. Trường hợp định đoạt tài sản là bất động sản, động
sản có đăng ký, tài sản là nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình phải có sự thỏa
thuận của tất cả các thành viên gia đình là người thành niên có năng lực hành
vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp luật có quy định khác. Trường hợp không có thỏa
thuận thì áp dụng quy định về sở hữu chung theo phần, trừ trường hợp sở hữu
chung của vợ chồng quy định tại Điều 213 BLDS 2015.
c) Sở hữu chung của vợ chồng
Căn cứ Điều 213 BLDS 2015, một số vấn đề
liên quan đến sở hữu chung của vợ chồng như sau:
- Sở hữu chung của vợ chồng
là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia;
- Là sở hữu chung hợp nhất
nên vợ chồng có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản
chung;
- Vợ chồng có thể thỏa thuận
hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;
- Là sở hữu chung hợp nhất
có thể phân chia nên vợ chồng có thể phân chia theo thỏa thuận hoặc theo quyết
định của Tòa án;
- Trường hợp lựa chọn chế độ
tài sản theo thỏa thuận theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình thì
tài sản chung của vợ chồng được áp dụng theo chế độ tài sản này.
d) Sở hữu chung trong nhà chung cư
Một số vấn đề pháp
lý liên quan đến sở hữu chung trong nhà chung cư quy định tại Điều
214 BLDS 2015 như sau:
- Phần diện tích, trang thiết
bị và các tài sản khác dùng chung trong nhà chung cư theo quy định của Luật nhà
ở thuộc sở hữu chung hợp nhất của tất cả chủ sở hữu các căn hộ trong nhà đó và
không phân chia, trừ trường hợp luật có quy định khác hoặc tất cả các chủ sở hữu
có thỏa thuận khác.
- Chủ sở hữu các căn hộ
trong nhà chung cư có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong việc quản lý, sử dụng
tài sản, trừ trường hợp luật có quy định khác hoặc có thỏa thuận khác.
- Trường hợp nhà chung cư bị
tiêu hủy thì quyền của chủ sở hữu căn hộ chung cư thực hiện theo quy định của
luật.
e) Sở hữu chung hỗn hợp
Theo Điều 215 BLDS 2015, sở hữu chung hỗn
hợp là sở hữu đối với tài sản do các chủ sở hữu thuộc các thành phần kinh tế
khác nhau góp vốn để sản xuất, kinh doanh thu lợi nhuận; tài sản được hình
thành từ nguồn vốn góp của các chủ sở hữu, lợi nhuận hợp pháp thu được từ hoạt
động sản xuất, kinh doanh hoặc từ nguồn khác phù hợp với quy định của pháp luật
là tài sản thuộc sở hữu chung hỗn hợp. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản
thuộc sở hữu chung hỗn hợp phải tuân theo quy định tại Điều 209 BLDS 2015 về sở
hữu chung theo phần và quy định của pháp luật có liên quan đến việc góp vốn, tổ
chức, hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý, điều hành, trách nhiệm về tài sản
và phân chia lợi nhuận.
3.3.
Quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản chung
Thứ nhất, về việc quản lý tài sản chung, theo quy định tại Điều
216 BLDS 2015, các chủ sở hữu chung cùng quản lý tài sản chung theo
nguyên tắc nhất trí, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định
khác.
Thứ hai, về việc sử dụng tài sản chung;
Căn cứ Điều 217 BLDS 2015, có
các trường hợp sau:
(i) Đối với sở hữu chung theo phần, mỗi chủ sở hữu chung
theo phần có quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản chung
tương ứng với phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc
pháp luật có quy định khác.
(ii) Đối với sở hữu chung hợp nhất, các chủ sở hữu chung hợp
nhất có quyền ngang nhau trong việc khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức
từ tài sản chung, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Thứ
ba, về việc định đoạt tài sản chung;
Căn cứ Điều 218 BLDS 2015, có
các trường hợp sau:
(i) Đối với sở hữu chung theo phần, mỗi
chủ sở hữu chung theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở hữu của mình.
Trường hợp một chủ sở hữu chung theo
phần bán phần quyền sở hữu của mình thì chủ sở hữu chung khác được quyền ưu
tiên mua.
Trong thời hạn 03 tháng đối với tài sản chung là bất động
sản, 01 tháng đối với tài sản chung là động sản, kể từ ngày các chủ sở hữu
chung khác nhận được thông báo về việc bán và các điều kiện bán mà không có chủ
sở hữu chung nào mua thì chủ sở hữu đó được quyền bán cho người khác. Việc
thông báo phải được thể hiện bằng văn bản và các điều kiện bán cho chủ sở hữu
chung khác phải giống như điều kiện bán cho người không phải là chủ sở hữu
chung. Trường hợp bán phần quyền sở hữu mà có sự vi phạm về quyền ưu tiên mua
thì trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày phát hiện có sự vi phạm về quyền ưu
tiên mua, chủ sở hữu chung theo phần trong số các chủ sở hữu chung có quyền yêu
cầu Tòa án chuyển sang cho mình quyền và nghĩa vụ của người mua; bên có lỗi gây
thiệt hại phải bồi thường thiệt hại.
(ii) Đối với sở hữu chung hợp nhất, việc định đoạt tài sản
chung hợp nhất được thực hiện theo thỏa thuận của các chủ sở hữu chung hoặc
theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, pháp luật còn quy định trường hợp chủ sở hữu
từ bỏ phần quyền sở hữu của mình hoặc chết mà không có người thừa kế. Cụ thể:
(i) Đối với tài sản là bất động sản thì phần quyền sở hữu
đó thuộc về Nhà nước, trừ trường hợp sở hữu chung của cộng đồng thì thuộc sở hữu
chung của các chủ sở hữu chung còn lại.
(ii) Đối với tài sản là động sản thì
phần quyền sở hữu đó thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu còn lại.
(iii) Trường hợp tất cả các chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu
của mình đối với tài sản chung thì việc xác lập quyền sở hữu được áp dụng theo
quy định tại Điều 228 BLDS 2015 về xác lập quyền sở hữu đối với tài sản vô
chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu.
Một vấn đề nữa liên quan đến định đoạt tài sản chung là
chia tài sản thuộc sở hữu chung. Căn cứ Khoản 1 Điều 219 BLDS 2015, mỗi chủ
sở hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung; nếu tình trạng sở hữu
chung phải được duy trì trong một thời hạn theo thỏa thuận của các chủ sở hữu
chung hoặc theo quy định của luật thì mỗi chủ sở hữu chung chỉ có quyền yêu cầu
chia tài sản chung khi hết thời hạn đó; khi tài sản chung không thể chia được bằng
hiện vật (sở hữu chung hợp nhất không phân chia) thì chủ sở hữu chung có yêu cầu
chia có quyền bán phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp các chủ sở hữu
chung có thỏa thuận khác. Việc chia tài sản chung cũng có thể được thực hiện
theo yêu cầu của người khác, trong trường hợp có người yêu cầu một người trong
số các chủ sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ thanh toán và chủ sở hữu chung đó
không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thanh toán thì người yêu
cầu có quyền yêu cầu chia tài sản chung và tham gia vào việc chia tài sản
chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; nếu không thể chia phần quyền
sở hữu bằng hiện vật hoặc việc chia này bị các chủ sở hữu chung còn lại phản đối
thì người có quyền có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ bán phần quyền sở hữu của
mình để thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
3.4.
Chấm dứt sở hữu chung
Căn cứ Điều 220 BLDS 2015, sở hữu chung chấm
dứt trong các trường hợp sau:
i. Tài sản chung đã được
chia;
ii. Một trong số các chủ sở
hữu chung được hưởng toàn bộ tài sản chung;
iii. Tài sản chung không
còn;
iv. Trường hợp khác theo quy định của luật.
Xem thêm các bài viết khác của chúng tôi tại: chuyentuvanphapluat.com.
Nhận xét
Đăng nhận xét