e. Đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả:
Để tránh tình trạng bị khởi tố hình sự, pháp
nhân cần:
·
Điều kiện về chủ thể:
-
Một là, tẩu tán trách nhiệm này
cho một cá nhân, tổ chức khác mà đảm bảo yếu tố “không cấu kết”, “không giúp sức”,
“không che giấu”.
-
Hai là, triệt tiêu tư cách chủ thể:
thành lập một tổ chức dự phòng không phải là pháp nhân thương mại.
-
Ba là, triệt tiêu tư cách pháp nhân: việc thực hiện hành vi
phạm tội vì không nhận thức được hành vi của mình là phạm tội, không ngăn chặn
kịp thời và hậu quả vẫn xảy xa không như mong muốn.
·
Điều kiện về khách thể:
Chỉ duy
nhất một yếu tố trong khách thể có thể triệt tiêu được dấu hiệu hình sự, đó
chính là đối tượng tác động của các quan hệ xã hội:
-
Một là, phải đảm bảo đúng tiêu
chí về khái niệm của vật thể thì mới có thể khởi tố hình
sự được. Trong đó, tại khoản
8 Điều 3 Nghị định 185/2013/NĐ-CP quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động
thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng thì: “Hàng giả” bao gồm các điểm a, b, đ, e, g, h và không
thuộc phạm vi quy định của Điều 193 “hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia
thực phẩm”, Điều 194 “hàng giả là
thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh”, Điều 195 “hàng giả là thức ăn chăn nuôi, phân bón, thuốc hú y, thuốc bảo vệ hực
vật, giống cây trồng, vật nuôi”:
a) Hàng hóa không có giá trị sử
dụng, công dụng; có giá trị sử dụng, công dụng không đúng với nguồn gốc bản
chất tự nhiên, tên gọi của hàng hóa; có giá trị sử dụng, công dụng không đúng
với giá trị sử dụng, công dụng đã công bố hoặc đăng ký;
b) Hàng hóa có
hàm lượng định lượng chất chính hoặc tổng các chất dinh dưỡng hoặc đặc tính kỹ
thuật cơ bản khác chỉ đạt mức từ 70% trở xuống so với tiêu chuẩn chất lượng
hoặc quy chuẩn kỹ thuật đã đăng ký, công bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì
hàng hóa;
đ) Hàng hóa có nhãn hàng hóa, bao
bì hàng hóa giả mạo tên thương nhân, địa chỉ của thương nhân khác; giả mạo tên
thương mại hoặc tên thương phẩm hàng hóa; giả mạo mã số đăng ký lưu hành, mã
vạch hoặc giả mạo bao bì hàng hóa của thương nhân khác;
e) Hàng hóa có nhãn hàng hóa, bao
bì hàng hóa ghi chỉ dẫn giả mạo về nguồn gốc hàng hóa, nơi sản xuất, đóng gói,
lắp ráp hàng hóa;
g) Hàng hóa giả mạo về sở hữu trí
tuệ quy định tại Điều 213 Luật Sở
hữu trí tuệ năm 2005;
h) Tem, nhãn, bao bì giả.
-
Hai là, phải đảm bảo đúng tiêu
chí về định mức:
§ Hàng hóa có hàm lượng định lượng chất chính hoặc
tổng các chất dinh dưỡng hoặc đặc tính kỹ thuật cơ bản khác chỉ đạt mức từ 70%
trở xuống so với tiêu chuẩn chất lượng hoặc quy chuẩn kỹ thuật đã đăng ký, công
bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa;
-
Ba là, phải
đảm bảo đúng tiêu chí về trị giá của hàng giả:
§ Hàng giả trị giá từ 20.000.000 đồng trở lên
tính theo giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn;
§ Hàng giả trị giá dưới 20.000.000 đồng tính
theo giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn nhưng đã bị xử phạt vi phạm
hành chính đã bị kết án về các tội vận chuyển trái phép hàng hóa, sản xuất,
buôn bán, tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, hàng giả, chưa được xóa án tích;
§ Hàng giả tương đương với với số lượng của hàng
thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá:
+
Trên 30.000.000 đồng trong trường hợp không xác định được giá bán, giá niêm yết,
giá ghi trong hóa đơn;
+
Dưới 30.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính đã bị kết án về các
tội vận chuyển trái phép hàng hóa, sản xuất, buôn bán, tàng trữ, vận chuyển
hàng cấm, hàng giả, chưa được xóa án tích;
§ Hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả với số lượng
lớn, giá trị lớn hoặc số lượng chưa lớn nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính,
đã bị kết án về các tội vận chuyển trái phép hàng hóa, sản xuất, buôn bán, tàng
trữ, vận chuyển hàng cấm, hàng giả, chưa được xóa án tích.
·
Điều kiện về mặt khách quan:
-
Một là, phải đảm bảo đúng khái niệm
về mặt hành vi sản xuất, buôn bán
thì mới khởi tố
được:
§ Hành vi sản xuất hàng giả: là hành vi tạo ra
các loại hàng hóa, sản phẩm có nhãn hiệu, kiểu dáng, nguồn gốc xuất xứ hàng hóa
giống như những sản phẩm, hàng hóa được Nhà nước cho phép sản xuất, nhập khẩu
và tiêu thụ trên thị trường (tức là hàng thật). Chủ thể phạm tội có thể tham
gia vào toàn bộ quá trình sản xuất hàng giả hoặc chỉ tham gia vào một công đoạn
nào đó của quá trình làm ra hàng giả như chỉ lắp ráp các bộ phận hoặc đóng gói
hoặc dán nhãn hiệu để tạo ra hàng giả.
§ Hành vi buôn bán hàng giả: là hành vi mua đi
bán lại những hàng hóa đã thành phẩm hoặc những bộ phận, chi tiết mà biết rõ là
hàng giả nhằm thu lợi bất chính.
-
Hai là, hành vi đó triệt tiêu được điều kiện về xử phạt vi phạm
hành chính hay không? Là, hành vi chưa bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc chưa
bị kết án về các tội vận chuyển trái phép hàng hóa, sản xuất, buôn bán, tàng trữ,
vận chuyển hàng cấm, hàng giả; đã được xóa án tích hoặc đã bị xử phạt vi phạm
hành chính về hành vi khác không phải là hành vi buôn lậu hoặc là hành vi vận
chuyển trái phép hàng hóa, sản xuất, buôn bán, tàng trữ, vận chuyển hàng cấm,
hàng giả.
-
Ba là, hậu quả do hành vi gây ra là những thiệt hại vật chất
và phi vật chất như tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; những
thiệt hại về tài sản cho xã hội và những thiệt hại khác về chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội,...; xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu công nghiệp, gây thiệt
hại đến lợi ích vật chất, uy tín của doanh nghiệp có sản phẩm, hàng hóa là hàng
thật; và không là dấu hiệu bắt buộc
để cấu thành tội phạm này mà chỉ dùng để định khung hình phạt. Vì vậy phải đảm
bảo về định mức của thiệt hại gây ra:
§ Làm chết người.
§ Gây tổn hại sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn
thương cơ thể từ 31% trở lên;
§ Gây tổn hại sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng
tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này là trên 31%;
§ Gây thiệt hại về tài sản trên 100.000.000 đồng.
-
Bốn là, hành vi tác động là
nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hậu quả. Tuy nhiên việc vẫn thực hiện đúng hành vi nhưng không dẫn đến hậu quả như phân tích trên thì sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
-
Năm là,
triệt tiêu thời điểm hoàn thành phạm tội: là thời điểm hàng giả được chưa thành
phẩm, chưa gây ra sự nhầm lẫn lừa dối cho khách hàng hoặc chưa gây ra thiệt hại
như trên.
-
Sáu là,
triệt tiêu địa điểm phạm tội: hành vi phạm tội chưa qua biên giới hoặc từ khu
phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại.
-
Bảy là, tẩu
tán mức độ hình phạt phải chịu nếu chủ thể phạm tội có những đóng góp tích cực
trong việc thực hiện các chính sách xã hội.
·
Điều kiện về mặt chủ quan:
Lỗi là lỗi cố ý (cố ý trực tiếp),
động cơ, mục đích phạm tội là nhằm thu lợi nhuận bất
chính. Tuy nhiên vẫn có thể tẩu tán trách nhiệm này
bằng cách:
-
Hành vi
phạm tội chưa hoàn thành đến mục đích cuối cùng là gây nhầm lẫn, lừa dối người
tiêu dùng.
-
Có thể triệt
tiêu được động cơ về hành vi phạm tội nếu chủ thể phạm tội không nhằm mục đích
chính là thu lợi nhuận; hoặc thu lợi nhuận chưa lớn (dưới 100.000.000 đồng).
-
Yếu tố lỗi
có thể được triệt tiêu nếu chủ thể phạm tội không nhận thức được hành vi của
mình là nguy hiểm, không ngăn chặn kịp thời và không mong muốn hậu quả xảy ra.
Xem thêm các bài viết khác tại: chuyentuvanphapluat.com.
Nhận xét
Đăng nhận xét